Lan tỏa tri thức trên các nền tảng mạng xã hội. Từ những ưu điểm so với các cách thức tiếp nhận kiến thức truyền thống, việc chia sẻ, lan tỏa kiến thức trên các nền tảng xã hội đang ngày càng được quan tâm và dần trở thành một xu hướng. Trong bối cảnh nhiều
Quân đội trong phòng, chống thách thức an ninh phi truyền thống "Vai trò của quân đội trong phòng, chống thách thức an ninh phi truyền thống" là chủ đề hội thảo khoa học do Viện Khoa học xã hội và Nhân văn quân sự - Học viện Chính trị tổ chức ngày 9-8.
5) Trí thức KH&CN thể hiện vai trò trong tham mưu, tư vấn, phản biện và giám định xã hội, góp phần quan trọng trong việc xây dựng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện các đề án, dự án phát triển kinh tế - xã hội của
Với xã hội tri thức, nhân tố chính là tốc độ, (Cá nhanh nuốt cá chậm chứ không phải cá lớn nuốt cá bé) với các ngành công nghiệp thay thế vật tư thô bằng vật tư mới và tiên tiến như Silicon, composit. Quá trình
Tri thức hình thành được là nhờ sự tiếp thu kiến thức cũng như học hỏi được những kỹ năng, một xã hội sẽ lạc hậu, không có sự phát triển là xã hội còn xuất hiện những con người không có trí thức, một thành phần thừa trong xã hội. + Vai trò cuối cùng mà tri
Hướng dẫn học bài 6: Sự chuyển biến và phân hóa của xã hội nguyên thủy trang 24 sgk Lịch sử và địa lí 6. Đây là sách giáo khoa nằm trong bộ sách "Kết nối tri thức và cuộc sống" được biên soạn theo chương trình đổi mới của Bộ giáo dục. Hi vọng, với cách hướng dẫn cụ thể và giải chi tiết học sinh
Hội nữ trí thức tỉnh Đồng Nai vừa phối hợp với trường Chính Trị tỉnh tổ chức hội thảo khoa học đề tài cấp tỉnh "Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp phát huy vai trò đội ngũ nữ trí thức" . Tại Đồng Nai, nữ trí thức chiếm hơn ½ lực lượng đội
zpdg.
Tự nhiên và Xã hội 3 Kết nối tri thức với cuộc sống PDF
Toàn cầu hóa và sản phẩm của nó là xã hội tri thức đang đưa đến một sự biến đổi to lớn trong toàn bộ hệ thống xã hội và đến lượt nó, sự thay đổi ấy cũng đang gây ra những sự đứt đoạn trong trật tự xã hội tại nhiều khu vực trên thế giới. Tại một số quốc gia, nền kinh tế truyền thống vẫn đang tiếp tục mang lại sự công bằng, nhưng tại một số quốc gia khác, hệ thống chính trị đang bị lung lai và tại mọi nước, hệ thống trật tự xã hội được xây dựng trên sự tuân thủ đang bị đặt trong tình trạng chệch hướng. Bài viết này bàn đến viễn cảnh của lý thuyết xã hội học trong thời đại bùng nổ của Công nghệ thông tin IT và cuộc Cách mạng tri thức KR vốn đang là yếu tố thúc đẩy cho sự tái điều chỉnh nhiều giá trị truyền thống và các chuẩn mực trong hành vi của cá nhân cũng như cua tổ chức xã hội. Bài viết cũng cố gắng xây dựng tính hợp thức cho xã hội học và các lý thuyết nền của nó trong ma trận của Xã hội tri thức được xây dựng trên nền của công nghệ thông tin. Discover the world's research25+ million members160+ million publication billion citationsJoin for free A preview of the PDF is not available ResearchGate has not been able to resolve any citations for this publication. Martin BulmerToo many sociologists in the last quarter of a century have, like Molière’s famous character Monsieur Jourdain, been speaking prose without realising it. Their work has had considerable impact on the practical world, but for much of the time they have been steadfastly denying its usefulness, even in one case going to the lengths of writing a book entitled Why Sociology Does Not Apply Scott and Shore, 1979. Starting from the view that a dominant theme of American sociology has been the argument that knowledge can transform society in obvious, self-evident and desirable ways, Robert Scott and Arnold Shore hold that many sociologists have a mistaken conception of the influence of research on policy. They see a schism opening up between social scientists doing routine disciplinary research and policy researchers doing work on policy questions. Gosta Esping-AndersenABSTRACT This article shows the declining effectiveness of the sociological classics to make sense of the dramatically changing economy and society. However, the various post-something’ analyses of such transformations, especially the post-modern emphases on language and discourse, are also shown to be inadequate. In their place the author advocates the use of various leitmotifs to establish certain constants, in order then to be able to describe and determine various patterns of variance. The article makes various recommendations for future sociology to be empirical and both diachronically and cross-sectionally comparative in order to comprehend those dramatic changes that currently surround us as sociologists. Sociology should establish such constants’ and worry less about being theory-less’.Bruno LatourABSTRACT The contribution of the field of science and technology studies STS to mainstream sociology has so far been slim because of a misunderstanding about what it means to provide a social explanation of a piece of science or of an artefact. The type of explanation possible for religion, art or popular culture no longer works in the case of hard science or technology. This does not mean, it is argued, that science and technology escapes sociological explanation, but that a deep redescription of what is a social explanation is in order. Once this misunderstanding has been clarified, it becomes interesting to measure up the challenge raised by STS to the usual epistemologies social sciences believed necessary for their undertakings. The social sciences imitate the natural sciences in a way that render them unable to profit from the type of objectivity found in the natural sciences. It is argued that by following the STS lead, social sciences may start to imitate the natural sciences in a very different fashion. Once the meanings of social’ and of science’ are reconfigured, the definition of what a social science’ is and what it can do in the political arena is considered. Again it is not by imitating the philosophers of science's ideas of what is a natural science that sociology can be made politically R. FeaginThe world's peoples face daunting challenges in the twenty-first century. While apologists herald the globaliza-tion of capitalism, many people on our planet experience recurring economic exploitation, immiseration, and envi-ronmental crises linked to capitalism's spread. Across the globe social movements continue to raise the issues of social justice and democracy. Given the new century's serious challenges, sociologists need to rediscover their roots in a sociology committed to social justice, to cultivate and extend the long-standing "countersystem" approach to research, to encourage greater self-reflection in sociological analysis, and to re-emphasize the importance of the teaching of soci-ology. Finally, more sociologists should examine the big social questions of this century, including the issues of economic exploitation, social oppression, and the looming environmental crises. And, clearly, more sociologists should engage in the study of alternative social futures, including those of more just and egalitarian soci-eties. Sociologists need to think deeply and imaginatively about sustainable social futures and to aid in building better human societies. WImmanuel WallersteinAnalysis is provided of the roots of sociology and its links with historical optimism. Particular focus is placed by such a sociology upon the origins of modernity and problems of urban disorder. Sociology's golden age was in the immediate postwar period. But since the 1960s, globalization’, the sciences of complexity and cultural studies have transformed the context for sociology especially transforming the so-called two cultures’. The article concludes with some wide-ranging recommendations as to how sociology should be developed into a re-unified, historical social science on a truly global scale.
Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ Nội dung Text Tìm hiểu về xã hội tri thức Phần 1 NGUYỄN VẢN DÂN Diện mạo và triển vọng CỦẤ XÃ HỘI TRI THỨC NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUốC GIA - sự THẬT Hà Nội - 2015 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Khoảng vài thập niên gần đây, những tác động mạnh mẽ của các tiến bộ khoa học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông đã làm cho thế giới chuyển biến tói một xã hội và nền kinh tế mà ở đó thông tin và tri thức được xem là nguồn lực chủ yếu. Điều này tác động mạnh mẽ đến tất cả các nước, nhất là các nưốc đang phát triển. Chúng ta ngày càng nhận thấy rằng xã hội tri thức có một tầm ý nghĩa rất quan trọng đôl với sự phát triển của loài người, nhưng để tiến tới xây dựng một xã hội tri thức, loài người đang phải vượt qua nhiều thách thức và trở ngại, trong đó có sự cách biệt sô", tình trạng bất bình đẳng trong việc tiếp cận giáo dục, sự mâu thuẫn giữa quyền sở hữu trí tuệ vối quyền được chia sẻ tri thức của mọi người dân,... Vối mong muôn giúp bạn đọc cũng như các nhà nghiên cứu hiểu rõ hơn thế nào là một xã hội tri thức theo quan niệm mối nhất của quốc tế và làm thế nào để có thể xây dựng được một xã hội tri thức bền vững, Nhà xuất bản Chính trị quôc gia - Sự thật xuất bản cuôn sách D iện m ạ o và triển v ọ n g củ a xã h ộ i tri th ứ c của Nguyễn Văn Dân cuô'n sách đã được xuất bản lần đầu tại Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2008. Cuồn sách sẽ là tài liệu tham khảo rất có giá trị cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu về xã hội tri thức - một lĩnh vực đang từng bước khẳng định vai trò và vị trí trong đòi sông hiện đại ngày nay. Nội dung cuô'n sách hệ thông hóa lại các quan điểm về đặc trưng của xã hội tri thức, làm rõ bản chất và phân tích vai trò của xã hội tri thức đôì với sự phát triển bền vững, qua đó trình bày một số suy nghĩ về con đường phát triển xã hội tri thức ở Việt Nam. Những vấn để do tác giả luận giải khá rộng và vẫn còn có những ý kiến đánh giá khác nhau trong giối nghiên cứu trong và ngoài nước. Đổ bạn đọc thuận tiện khi nghiên cứu, tham khảo, chúng tôi cô" gắng giữ nguyên chính kiến và các luận chứng của tác giả và coi đây là quan điểm riêng. Rất mong bạn đọc góp ý kiến để lần xuất bản sau nội dung cuô"n sách hoàn thiện hớn. Tháng 3 năm 2015 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - sự THẬT Mở đầu XÃ HỘI THÔNG TIN HAY XÃ HỘI TRI THỨC? Ngày nay, trên sách báo trong và ngoài nước đang xuất hiện hai khái niệm khi thì đưỢc dùng để chỉ một kiểu xã hội hiện đại, khi thì được dùng để chỉ hai giai đoạn phát triển của nó; “xã hội thông tin” và “xã hội tri thức”. Thực tế, hai khái niệm này đang được hiểu và cần phải được hiểu như thế nào? Đây là hai khái niệm xuâ't hiện từ khoảng thập niên 1960, khi công nghệ thông tin đã làm một cuộc cách mạng để tạo ra một kiểu xã hội mới, xã hội hậu công nghiệp. Từ đó người ta bắt đầu nói đến một thời đại thông tin. Bên cạnh hai thuật ngữ “xã hội thông tin” và “xã hội tri thức”, người ta còn nói đến “xã hội số” hay “xã hội kỹ thuật số”i “xã hội mạng”, “xã hội học tập” hay “xã hội học hành”, có người còn dịch là “xã hội học hỏi”, “xã hội dựa trên tri thức”... Nhìn chung, các thuật ngữ này đều xoay quanh hai đặc trưng chủ chốt là “thông tin” và “tri thức”. Sự thực là thuật ngữ “xã hội tri thức” xuất hiện sau thuật ngữ “xã hội thông tin” và “xã hội học tập” tiếng Anh “knọwledge society”, “information society”, “learning society”. Theo nhiều nguồn tài liệu thì người đầu tiên đưa ra thuật ngữ “xã hội tri thức” là nhà khoa học người Mỹ Peter Drucker trong công trình Thời đại gián đoạn. Dường hướng cho xã hội đang thay đổi của chúng ta The Age o f Discontinuity. Guidelines to our Changing Society, xuất bản tại New York Harper & Row năm 1969. Từ đó, xã hội tri thức tiếp tục được bàn luận song song với xã hội thông tin và xã hội học tập, và đến thập niên 1990 thì nó được khẳng định. Đặc biệt là sang đến đầu thế kỷ XXI, vấn đề về xã hội tri thức đã thu hút được sự hỢp tác nghiên cứu của các nhà khoa học và sự quan tâm của các tô chức quốc tế, đặc biệt là các tổ chức của Liên hỢp quốc. Từ ngày 10 đến ngày 12-12-2003, theo kế hoạch của Đại hội đồng Liên hỢp quốc, Liên hiệp Viễn thông Quốc tế của Liên hỢp quốc ITU đã tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh thế giới vể Xã hội Thông tin giai đoạn I tại Giơnevơ, Thuỵ Sĩ. Và để phục vụ cho công tác trù bị của Hội nghị này, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hỢp quốc UNESCO đã cho công bố hai văn kiện quan trọng - Thông cáo của Hội nghị bàn tròn cấp bộ trưởng “Hướng tối các xã hội tri thức” “Tovvards Knowledge Societies”, và - Bản báo cáo Từ xã hội thông tin đến xã hội tri thức From the Inỉorm ation Society to KnowIedge Societies. Trong bản thông cáo “Hướng tối các xã hội tri thức” của Hội nghị bàn tròn cấp bộ trưởng của Đại hội UNESCO, UNESCO đã nhấn mạnh “...việc sử dụng các công nghệ thông tin - truyền thông để xây dựng xã hội tri thức cần phải hướng tối sự phát triển con người dựa trên các quyền con người”*. Rồi từ ngày 16 đến ngày 18-11-2005, Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Xã hội Thông tin giai đoạn II đưỢc tổ chức tại Tuynít, thủ đô của Tuynidi. Tại Hội nghị lần này, cộng đồng quốc tế đã nỗ lực muốn đạt được một quan điểm chung về một bộ khung thích hỢp cho một xã hội dành cho tất cả mọi người. Nhân dịp này, các học giả Đức đã nhân danh xã hội công dân Đức soạn thảo một bản Hiến chương vê quyền công dân vì m ột xã hội tri thức bền vững trình lên Hội nghị, trong đó các nhà khoa học Đức nhấn mạnh “Một xã hội trong đó chế độ sở hữu trí tuệ đang biến tri thức thành một nguồn tài nguyên khan hiếm thì không phải là một xã hội bển vững”^. Như vậy, ngay khi diễn ra Hội nghị Thượng đỉnh Thế giối về Xã hội Thông tin, thì các nhà khoa học đã khuyến cáo rằng, để khắc phục những nhược điểm của xã hội thông tin, chúng ta phải chuyển sang xã hội tri thức, và ngay bây giò, loài người phải chú trọng đến việc xây dựng xã hội tri thức, nền tảng của xã hội bền vững. Và cũng ngay trong năm 2005, UNESCO đã xuất bản một Báo cáo Thế giối mang tên Hướng tới cấc xã hội tri thức, dài 226 trang, trong đó các tác giả nhấn mạnh yêu cầu phải chuyển từ xã hội thông tin sang xã hội tri thức, với một nguyên tắc 1. Trích theo UNESCO; Towards Knowledge Societies UNESCO World Report 2005 “Hướng tối các xã hội tri thức- Báo cáo thê giới của UNESCO 2005”, UNESCO Publishing, Paris, 2005, p. 28. 2. Charter of civil rigbts for a sustainable knovỉỉedge society A contribution of German civil society for the world summit on the iníormation society Geneva 2003 - 'hinis 2005, cơ bản là tri thức cần p h ải được chia sẻ cho mọi người dẫn trên t h ế giới. Theo UNESCO, xã hội tri thức có một tính ưu việt so vối xã hội thông tin là Trong khi xã hội thông tin vẫn dựa trên nguyên tắc trao đổi mua bán của nền kinh tê thị trường thông tin đưỢc coi là hàng hoá; thì xã hội tri thức dựa trên một nguyên tắc đạo đức học mới mang tính dân chủ, dân quyền và nhân quyền tri thức cần phải được coi là tài sản chung của nhân loại, mọi người dân đều có quyền được tiếp cận. Điều này sẽ biến xã hội tri thức thành phương tiện để loài người xây dựng một xã hội bển vững và phát triển con người bền vững. Đây là xu hướng phù hỢp với trào lưu chung hiện nay của toàn cầu hoá trào lưu hướng tới dân chủ, dần quyền và nhân quyền. Đe tiến tới xây dựng một xã hội tri thức, loài người đang phải vượt qua rất nhiều thách thức và trở ngại đó là sự cách biệt sô", là tình trạng bất bình đẳng trong việc tiếp cận giáo dục, dẫn đến tình trạng cách biệt và loại trừ về mặt tri thức giữa miền Bắc và miền Nam, giữa các nước phát triển với các nưốc đang phát triển và trong lòng mỗi một xã hội. Xã hội tri thức cũng sẽ phải giải quyết vấn đề về sự mâu thuẫn giữa quyền sở hữu trí tuệ - một quyển lợi trọng tâm của xã hội thông tin - với quyền được chia sẻ tri thức của mọi người dân. Chúng ta tưởng rằng với quá trình toàn cầu hoá, cùng với các thể chế mang tính áp đặt phổ biến của nó như Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, quyền sở hữu trí tuệ sẽ ngày càng trở thành tiêu chuẩn đôl xử giữa các xã hội. Thế nhưng cùng với sự xuất hiện của xã hội tri thức, quyền sở hữu trí tuệ sẽ được nhìn nhận dưói một ánh sáng 10 khác mà dựa vào đó loài người sẽ phải giải quyết vấn đề này theo một hướng phát triển bền vững hơn. Rõ ràng, xã hội tri thức đang mở ra cho chúng ta những đường hướng mối chưa từng có cho sự p h át triển con người theo quan điểm nhân đạo. * Trong những năm gần đây, Việt Nam cũng đã nói nhiều đến chủ đề xã hội thông tin, nhưng chủ đề xã hội tri thức được đề cập rất ít. Có một sô" bài tạp chí lẻ tẻ đã để cập đến xã hội tri thức, nhưng chưa có cuô"n sách nào bàn chuyên về xã hội tri thức. Mặt khác, các tác giả trong nước chủ yếu vẫn nhìn xã hội tri thức từ góc độ kinh tế. Trong gần 10 năm trở lại đây, một loạt cuôh sách viết về kinh tế tri thức và xã hội thông tin đã đưỢc công bố. Chúng tôi xin đơn cử một số cuô"n sách như; Nền kinh t ế tri thức Nhận thức và hành động. Kinh nghiệm của các nước p h át triển và đang phát triển, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2000, 216 trang; Kinh t ế tri thúc - vấn đ ề và giải pháp Kinh nghiệm của các nước đang p h á t triển Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Nhà xuất bản Thông kê, Hà Nội, 2001, 239 trang; Kinh t ế tri thức - Những k h á i niệm và vấn đ ề cơ bản Đặng Mộng Lân, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2001, 142 trang; Kinh t ế tri thức - xu t h ế mới của xã hội t h ế k ỷ XXI Sách tham khảo, Ngô Quý Tùng, Nhà xuất bản Chính trị quốíc gia, Hà Nội, 2000, 400 trang; P hát triển kinh t ế tri thức Rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá Đặng Hữu Chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 11 2001, 387 trang; Quản lý công nghệ trong nền kinh tê tri thức Đặng Nguyên, Thu Hà, Nhà xuất bản Hà Nội, Hà Nội, 2002, 318 trang; Nhà nước với p h á t triển kinh t ế tri thức trong bối cảnh toàn cầu hoá Nguyễn Thị Luyến Chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005, 329 trang; Ai sở hữu kinh t ế tri thức? Tiếng nói bè bạn, Sách tham khảo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, 187 trang; Tri thức, thông tin và p h á t triển Viện Thông tin Khoa học xã hội, Bùi Biên Hoà Chủ biên, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, 370 trang; Hội thảo khoa học “Kinh t ế tri thúc và những vấn đ ề đặt ra đôĩ vói Việt N anỉ’ Ban Khoa giáo Trung ương - Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường - Bộ Ngoại giao, Hà Nội, 2000, 259 trang; Những vấn đ ề về kinh t ế tri thức Tư liệu chuyên để, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000, 4 tập; Thời đại kinh t ế tri thức Sách tham khảo, Tần Ngôn Trước - Trần Đức Cung - Nguyễn Hữu Đức dịch, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, 464 trang; Những thách thức của sự p h á t triển trong xã hội thông tin Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002, 208 trang; Bước chuyển sang nền kinh t ế tri thức ở m ột s ố nước trên t h ế giới hiện nay Lưu Ngọc Trịnh Chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2002, 444 trang; Kinh t ế tri thức ở Việt Nam Quan điểm và giải pháp p h á t triển Vũ Trọng Lâm Chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2004, 284 trang; Môi trường xã hội nền kinh t ế tri thức Những nguyên lý cơ bẩn Sách chuyên khảo chuyên ngành Xã hội học tri thức, Trần Cao Sơn, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 12 Hà Nội, 2004, 219 trang; Kinh t ế tri thức với công cuộc p h á t triển ỏ Việt Nam Vương Liêm, Nhà xuất bản Thanh niên, Thành phốHồ Chí Minh, 2004, 291 trang; Kinh t ế tri thức - Thời cơ và thách thức đối với sự p h át triển của Việt Nam Đặng Hữu, Nhà xuất bản Chính trị quốíc gia, Hà Nội, 2004, 318 trang. Như vậy, mối quan tâm chính của các nhà nghiên cứu và quản lý của Việt Nam mối chỉ tập trung vào kinh t ế tri thức và xã hội thông tin. Đành rằng kinh tế tri thức là một trong những cột trụ của xã hội tri thức trong tương lai, nhưng, theo quan điểm mối đây của nhiều học giả và tổ chức quốc tế trên thế giới, thì kinh tế tri thức không phải là tất cả xã hội tri thức. Nói một cách khác, nhiều tác giả trong và ngoài nước ta vẫn thiên về xu hưống đồng nhất xã hội tri thức với xã hội thông tin và với kinh t ế tri thức, vẫn thiên về việc chú trọng đến vai trò của công nghệ thông tin mà ít có ý thức về các khía cạnh xã hội, chính trị, giáo dục và đạo đức của “xã hội tri thức”’, trong khi đó, những khía cạnh này cũng là những khía cạnh chủ chốt của xã hội tri thức. Có thể nói, những bài báo viết về xã hội tri thức của nưốc ta chưa cập nhật được quan niệm mới nhất của quốc t ế về xã hội tri thức. Vì thế, chúng tôi thực hiện công trình này vối mục đích Thông tin khách quan về quan điểm của các nhà khoa học 1. Về vấn đề này, có thể tham khảo bài viết “Xã hội tri thúc và vài suy n gh ĩ v ề con dường hội nhập" của Diễn đàn Công nghệ thông tin Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, đăng trên ngày 4 -5 -2 0 0 3 . 13 trên thế giới về xã hội tri thức, vể những vấn đề và những lĩnh vực liên quan đến xã hội tri thức trong đó tất nhiên phải có lĩnh vực xã hội thông tin và kinh tê tri thức, là những lĩnh vực vẫn được nhiều người đồng nhất với xã hội tri thức; về những đặc điểm của xã hội tri thức cùng những thách thức và triển vọng đốì với sự phát triển thế giới nói chung và của xã hội Việt Nam nói riêng; góp phần tạo lập cơ sở lý luận cho việc tiến tói xây dựng một xã hội tri thức ở Việt Nam, đưa nưốc ta hội nhập với xu thế phát triển của thế giối. 14 Ch ương I TỪ XÃ HỘI THÔNG TIN ĐEN XÃ HỘI T R I THỨC 1. Sự chổng chéo giữa hai khái niệm Trước hết chúng tôi phải nói rõ thêm rằng, thuật ngữ “xã hội thông tin” hay “xã hội tri thức” không nằm trong hệ thôhg khái niệm thuộc hệ thông phát triển của hình thái ý thức xã hội theo lý thuyết về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Cũng giống như mọi sự vật, xã hội có thể được tiếp cận từ nhiều góc độ. Từ mỗi góc độ ta lại có thể phân loại và phân cấp xã hội theo một hệ thống khác. Đứng từ góc độ của lý thuyết quan hệ sản xuất, chúng ta có các hình thái ý thức xã hội như xã hội cộng sản nguyên thuỷ, xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản, xã hội xã hội chủ nghĩa, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đứng từ góc độ tôn giáo người ta có thể nói đến xã hội Cơ Đốc giáo, xã hội Phật giáo, xã hội Nho giáo, xã hội Hồi giáo... Và đứng từ góc độ văn minh, người ta nói đến sự chuyển biến theo dòng lịch sử từ xã hội nông nghiệp lên xã hội công nghiệp, đến xã hội hậu công nghiệp hay xã hội thông tin, và tiếp 15 đến sẽ là xã hội tri thức. Đó là chưa kể đến việc người ta có thể lấy tên gọi của dân tộc để đặt cho xã hội của một quốc gia xã hội Mỹ, xã hội Nga, xã hội Trung Quốc, xã hội Việt Nam... Còn thuật ngữ “xã hội công dân”^ thì không phải là để chỉ một kiểu hình thái xã hội, mà là một thuật ngữ đưỢc dùng để chỉ tập hỢp các cá nhân và tổ chức trong quan hệ phân biệt vối nhà nước. Về' điều này, chúng tôi s ẽ trình bày thêm ỏ chương II. Tuy nhiên, các hệ thống xã hội khác nhau của các góc độ tiếp cận khác nhau không trùng khớp hoặc loại trừ nhau hay phải có quan hệ với nhau. Nghĩa là xã hội nông nghiệp không nhất thiết trùng khớp chỉ với xã hội phong kiến, xã hội thông tin hay xã hội tri thức không nhất thiết phải trùng khớp với xã'hội tư bản hay với xã hội cộng sản. Không nhất thiết phải quan niệm rằng khi ta nói đến các kiểu xã hội theo góc độ văn minh thì ta phải loại trừ các kiểu xã hội theo góc độ quan hệ sản xuất. Cũng không nhất thiết khi nói đến xã hội tri thức, chẳng hạn, thì phải xét xem nó có liên quan gì đến các hình thái xã hội, hoặc nó có tương ứng với một hình thái xã hội nào đó trong hệ thống các hình thái xã hội xét theo góc độ quan hệ sản xuất hay không. Nghĩa là ta phải quan niệm rằng các góc độ tiếp cận đa dạng chỉ có ý nghĩa bổ sung góc nhìn cho nhau mà thôi. * Nói đến xã hội thông tin, người ta thường hình dung đó là một xã hội dựa trên những ứng dụng phổ biến của các 1. Một thuật ngư có xuất xứ từ tiếng nưóc ngoài, còn được dịch là “xă hội dân sự”. 16 công nghệ thông tin và truyền thông mới, tức là công nghệ máy tính điện tử và kỹ thuật số, mà đỉnh cao là công nghệ internet. Với các công nghệ thông tin và truyền thông mới này, nhiều người đã nói đến một cuộc cách mạng thông tin lần thứ năm do thời đại thông tin đem lại từ giữa thế kỷ XX, sau bốn cuộc cách mạng đã diễn ra trong lịch sử nhân loại với sự xuâ't hiện lần lượt của tiếng nói, chữ viết, kỹ thuật in ấn, các thiết bị truyền thông bằng điện và điện tửh Song, cũng có nhiều người dưới sự tập hỢp của UNESCO lại gọi cuộc cách mạng của những công nghệ mối ngày nay là cuộc cách m ạng công nghiệp lần thứ ba, m ột cuộc cách m ạng sô' tạo ra những vật vô hỉnh và m ạng liên k ết toàn cầu, sau cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất vối sự thay thê của máy móc cho lao động chân tay, và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai với việc phát triển công nghiệp dịch vụ^. Có thể nói, dù được xác định bằng tên gọi là cuộc cách mạng thông tin lần thứ năm hay cách mạng công nghiệp lần thứ ba, thì trong suốt nửa thế kỷ qua, các công nghệ thông tin và truyền thông mới vẫn đang phát huy sức mạnh của nó, và ngày nay càng phát huy mạnh mẽ hơn bao giò hết. Đứng từ góc độ khoa học và công nghệ, xã hội thông tin được coi là một kiểu xã hội có các lĩnh vực hoạt động dựa 1. Xem Bùi Biên Hoà; “Toàn cầu hoá kinh tê dưới tác động của cuộc cách mạng thông tin lần thứ năm”, in trong N hững vấn đ ề của toàn cẩu hoá kinh tê’Nguyễn Văn Dân chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001, tr. 124 -158; Phạm Thị Ngọc Trầm “Cách mạng thông tin - công nghệ và nền văn minh”, ngày 12-12-2005. 2. Xem UNESCO; Towards Knowledge Societies, Tlđd, tr. 5, 18, 24, 27, 45. 17 ! trên các công nghệ thông tin và truyền thông. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, công nghệ thông tin đang đóng một vai trò quan trọng, tạo ra những sản phẩm có hàm lượng thông tin cao. Nền kinh tế đó được gọi là nền kinh tế mới, còn đưỢc cụ thể hoá bằng những tên gọi như kinh tê mạng, kinh tế sô", kinh tế thông tin, hay kinh tê dựa trên tri thức, và cuổì cùng được gọi ngắn gọn là kinh tế tri thức. Một sô" ngành công nghệ cao hiện nay đang được coi là những ngành mũi nhọn của nền kinh tê mới này. Chính vì vậy, trong quan niệm của nhiều người, xã hội thông tin cũng đồng nghĩa với xã hội tri thức, và xã hội tri thức lại đồng nghĩa với kinh tế tri thức. Việc đồng nhất khái niệm xã hội thông tin với xã hội tri thức không chỉ diễn ra ở Việt Nam, mà ngay cả trên thê" giới, hai khái niệm này vẫn được nhiều người dùng lẫn cho nhau. Điều này xuất phát từ một thực tê" là bản thân “thông tin” và “tri thức” là hai khái niệm khó có thể phân biệt rạch ròi. Trong tập 1 của cuô"n sách The Iníorm ation Age Economy, Society and Culture Thời đại thông tin Kinh tế, xã hội và văn hoá, xuất bản năm 1996, Manuel Castells đã định nghĩa “thông tin” là “dữ liệu được tổ chức và đưỢc truyền thông”, ông cũng nhắc lại định nghĩa đơn giản nhưng tương đô"i mang tính mở của Daniel Bell thông tin là “một tập hỢp những lời tuyên bô" về các sự việc hoặc ý tưởng, đưa ra một sự phán xét có lý hoặc một kết quả thực nghiệm, được truyền đi cho những người khác thông qua một phương tiện truyền thông nào đó theo một hình thức hệ thông nhâ"t định”. Như vậy, theo Castells, thông tin và 18 tri thức là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, tuy nhiên chúng cùng chia sẻ những đặc điểm chung, bao gồm việc tổ chức và truyền thông dữ liệu. Xã hội tri thức nhấn mạnh nhiều hơn đến khả năng sản sinh và tích hỢp tri thức mói, và đến khả năng tiếp cận thông tin, tiếp cận tri thức, dữ liệu và một tập hỢp rộng lớn các bí quyết nghề nghiệph Trong cuốn sách Kinh t ế tri thức Những k h á i niệm và vấn đê cơ bản, xuất bản năm 2001, trên cơ sở tổng hỢp các quan điểm của các học giả nưốc ngoài, nhà nghiên cứu Đặng Mộng Lân cho biết rằng thông tin theo nghĩa rộng bao gồm dữ liệu, còn thông tin theo nghĩa hẹp là kiến thức hay tri thức^. Và theo tác giả, tất cả mọi dữ liệu hay kiến thức tri thức đều là thông tin theo nghĩa rộng. Theo ông “Thông tin là dữ liệu đã đưỢc chế biến tức được xử lý’ - NVD tối mức độ nào đó, kiến thức tri thức - NVD là thông tin được chế biến “xử l ý ’ ở mức cao hơn”'*. Tuy nhiên, Đặng Mộng Lân lại trích quan điểm của p. F. Drucker cho rằng trong nền kinh tế tri thức, một phần quan trọng tri thức được “dịch” thành thông tin tức tri thức đưỢc mã hoá để có thể dễ dàng mua bán'*. Rõ ràng là “thông tin” và “tri thức” đang còn được dùng lẫn cho nhau. Đó là vì, như nhiều người đã nói “Vấn đề bản chất của thông tin, như ta đã biết, là một trong 1. Castells M. The Iníormation Age Economy, Society and Culture, Vol. 1, The Rise of the Netvvork Society, Malden, Mass./Oxíord, Blackvvell, 1996, p. 38, note 28. Trích theo UNESCO Tovvards Knovvledge Societies, Tlđd, chú thích 4 của phần Nhập đề, tr. 211.. Hai tập sau của cuô'n sách này là; Vol. 2, The Power oíldentity, 1997; Vol. 3, End of Millenium, 1998. 2, 3, 4. Đặng Mộng Lân Kinh t ế tri thức N hũng khái niệm và vấn dê cơ bản, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2001, tr. 21, 28, 19. 19 những vấn đề phức tạp nhất và có nhiều tranh cãi nhất trong khoa học hiện đại” A. Ursul và E. Semeniuk, 1978; rằng; “Vấn đề chính của chúng ta là chúng ta không biết thông tin là cái gì”' H. Bosma, 1983. Ngay cả khái niệm tri thức cũng có nhiều phát biểu khác về nó, trong đó có cả những phát biểu mang tính cảm nhận chủ quan. Chẳng hạn như Ngân hàng Thế giới đã đưa ra một định nghĩa rất văn vẻ “Tri thức giống như ánh sáng. Không trọng lượng và vô hình, nó dễ dàng đi khắp thế giới, soi sáng cuộc sông của người dân ở khắp mọi nơi”^1999. Còn Sven Ove Hansson, Giáo sư triết học Viện Công nghệ Hoàng gia Stockholm, thì đưa ra một định nghĩa thiên về tính chủ quan “Trước hết, tri thức là một dạng niềm tin. Điều gì không được người ta tin thì không thể là tri thức. Bởi vậy, nếu tôi tiếp cận được một thông tin xác thực nhưng lại không tin vào nó, thì việc tôi biết đến thông tin đó cũng không làm thành tri thức. Mặt khác những niềm tin không đúng đắn cũng không thể đưỢc coi là tri thức .... Như thế, tri thức có cả yếu tố chủ quan lẫn yếu tố khách quan”^. 1. Đặng Mộng Lân Kinh t ế tri thức N hững khái niệm và vấn đ ề cơ bản, Sđd, tr. 23. 2. Trích theo Hans-Dieter Evers Transition towards a Knovvledge Society; Malaysia and Indonesia Compared” “Quá độ sang một xã hội tri thức; so sánh Malayxia và Inđônêxia”, hdevers/ file; transition tovvards a Knowledge Society- hde 01/07/2002 354 PM, tr. 5. 3. Sven Ove Hansson “Uncertainties in the Knovvledge Society” “Những tình trạng bấp bênh trong xã hội tri thức”, UNESCO, ISSJ, 171/2002, p. 39-46 Đoạn trích ở tr. 39, { 8 pages; { 20 s. o. Hansson đã phân biệt rất rõ dữ liệu với thông tin và với tri thức, ông lấy ví dụ .nếu ông có một cuốn sách vê thói quen đi lại của người dân Stockholm, thì điều đó có nghĩa là ông được tiếp cận thông tin về chủ đê này chứ chưa phải là tri thức. Nếu ông đọc cuốn sách, thì thông tin có thể sẽ dẫn đến tri thức. Tuy nhiên, sự chuyển biến từ thông tin thành tri thức như vậy chỉ có thể xảy ra nếu ông hiểu đưỢc thông tin để nó có thể đưỢc hấp thụ vào hệ thông niềm tin của ông một cách đúng đắn. Nếu ông học thuộc lòng văn bản cuốn sách mà không hiểu, thì ông có thông tin chứ không phải có tri thức về chủ đề đó. Còn dữ liệu thì khác biệt với thông tin ở chỗ là nó không có đưỢc một hình thức thích hỢp cho sự hấp thụ. Nếu thay vì cuốn sách, ông có câu hỏi mà dựa vào đó cuốn sách đã đưỢc viết ra, thì tức là ông có dữ liệu chứ không phải thông tin. Nói tóm lại, dữ liệu phải được hấp thụ bằng con đường nhận thức để có đủ điều kiện là thông tin, và phải đưỢc hấp thụ bằng con đường nhận thức để có đủ điều kiện là tri thức*. Trong cuô"n sách Inỉorm ation and Know ledge Society Xã hội thông tin - tri thứcY, xuất bản năm 2002, hai tác giả là Suliman Al-Hawamdeh PGS. TS. Ban nghiên cứu 1. Sven Ove Hansson “Uncertainties in the Knovvledge Society”, Tlđd, tr. 39-40. 2. Việc diễn đạt cụm từ này sang tiếng Việt, nếu không chú ý sẽ rất dễ gây hiểu lầm. Nếu ta dịch là “Xã hội thông tin và tri thức”, thì có thể khiến người đọc hiểu đây là môi quan hệ giữa một vế là “xã hội thông tin” vói mệt vê là “tri thức”. Nhưng thực tê là tác giả bàn đến một kiểu xã hội mang bản tính của “thông tin và tri thức”, ở đây, “thông tin và tri thức” là một tính từ kép bô nghĩa cho danh từ “xã hội”, chính vì vậy mà chúng tôi buộc phải thay chữ “và” bằng dấu gạch nốì để khỏi nhầm lẫn. 21 r thông tin thuộc Đại học Công nghệ Nam Dương Nanyang, Xingapo và Thomas L. Hart GS. TS. của Trường Nghiên cứu Thông tin thuộc Đại học Quốc gia Plorida, Hoa Kỳ, đã phân biệt tri thức với thông tin như sau “Chúng tôi định nghĩa tri thức là thông tin tích cực và năng động đó là thông tin được đọc hoặc được thông báo, đưỢc hấp thụ và đưỢc sử dụng. Định nghĩa này sẽ giúp ta phân biệt giữa các trung tâm thông tin thư viện, thư viện số", thư mục, cổng thông tin, với các tô chức tri thức. Trong khi các trung tâm và các cổng thông tin đưỢc dùng để nắm bắt, tổ chức và quản lý thông tin, thì các tổ chức và các cổng tri thức vượt qua khỏi việc quản lý thông tin để quản lý tri thức. Điều này đòi hỏi phải sử dụng và thao tác thông tin để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có giá trị gia tăng. Việc biến thông tin từ dạng tĩnh sang dạng động cũng có thể dẫn đến sự đổi mới và sáng tạo. Thông thường, tri thức tồn tại trong sách vở và tư liệu dưới dạng thông tin tĩnh sẽ không có ích gì nếu thông tin đó không đưỢc đọc và đưỢc lĩnh hội”k ĐỐI với khái niệm “tri thức”, nhiều người đã phân ra hai loại tri thức tri thức hiện và tri thức ẩn. Ví dụ, hai tác giả Al-Hawamdeh và Thomas L. Hart quan niệm về hai loại tri thức này như sau • Tri thức hiện, được xác định như là thông tin và kỹ năng mà chúng có thể đưỢc thông báo và mô tả dưối dạng tư liệu một cách dễ dàng ví dụ như dữ liệu số. 1. Suliman Al-Hawamdeh và Thomas L. Hart Inỉormation and Knowledge Societỵ Xã hội thông tin - tri thức, McGraw-Hill Education, Singapore, 2002, p. 3. 22 • Tri thức ấn, được xác định như là tri thức không mã hoá mà con người đem theo trong mình và sử dụng trong công việc của mình nhưng không đưỢc mô tả trong bất cứ một tư liệu nào’. Năm 2005, trong bản báo cáo Tìm hiểu xã hội tri thức, Vụ các Vấn đê Kinh tế và Xã hội DESA thuộc Ban Thư ký của Liên hợp quốc cũng phân ra hai loại tri thức như trên và họ đồng nhất thông tin với tri thức hiện để phân biệt nó vói tri thức ẩn. Họ phát biểu; “Tri thức hiện thông tin ám chỉ cái niềm tin được xác minh là đúng’ Platon, đưỢc mã hoá bằng ngôn ngữ hình thức và mang tính hệ thống. Nó có thể được kết hỢp, lưu trữ, truy cập và truyền tải thông qua các phương tiện khác nhau, bao gồm cả các công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại. Tri thức ẩn lè một sự pha trộn linh hoạt kinh nghiệm trong khuôn khổ với các giá trị, vối thông tin tình huống và sự thấu hiểu chuyên môn để cung cấp một khuôn khô đánh giá và hỢp nhất các kinh nghiệm và thông tin mối. Tri thức ẩn là thông tin kết hỢp với kinh nghiệm, tình huống, sự lý giải và sự phán đoán”^. Sau đó, cũng giông như Nonaka, Takeuchi và Konno, DESA ví tri thức như là một tảng băng trôi phần nổi của 1. s. Al-Hawamdeh và Th. L. Hart Information and Knowledge Society, Sđd, tr. 94-96. 2. DESA Department of Economic and Social Affairs of the United Nations S ecretariat, U nderstanding KnowIedge Societies Tìm hiểu xã hội tri thức, UN, New York, May 2005 179 p., tr. 19, 23
Giám đốc điều hành Truth Social Devin Nunes hôm thứ Tư 7/6, giờ Mỹ loan báo rằng nền tảng mạng xã hội này đã có phiên bản cho toàn cầu sử Nunes, cựu dân biểu Cộng hòa đại diện cho tiểu bang California, nói trên Just the News “Chúng tôi đã đang tạo ra một hệ thống là bức tường thành chống lại các công ty công nghệ lớn big tech. Chúng tôi không phụ thuộc vào bất kỳ công ty công nghệ lớn nào ngoại trừ việc ứng dụng của chúng tôi phải có trên Google Play Store và Apple App Store. Nhưng chúng tôi không gặp bất cứ vấn đề gì với điều đó bởi vì chúng tôi muốn có một nền tảng sạch và bây giờ chúng tôi đã mở rộng ra toàn cầu”.Truth Social là nền tảng mạng xã hội thuộc sở hữu của cựu Tổng thống Donald Trump được ra mắt vào tháng 2/2021. Ông Trump tuyên bố rằng ông tạo ra ứng dụng mạng xã hội này là để thay thế cho các mạng xã hội MarketWatch, cho đến tháng 4/2022, tức hơn 1 năm sau khi xuất hiện, đã có người dùng sử dụng Truth Social hàng ngày, và 2 triệu người dùng sử dụng Truth Social hàng Nunes cho biết một số nền tảng khác chẳng hạn như Facebook đã đang bị cáo buộc đánh cắp, bán hoặc xử lý sai dữ liệu của người dùng, nhưng điều đó không xảy ra với Truth Social.“Chúng tôi sẽ không tìm cách bán dữ liệu của bất kỳ ai và tôi nghĩ đó là điều chính yếu”, ông Nunes khẳng định.“Một vấn đề lớn khác là rằng chúng tôi có một giao diện đơn giản. Chúng tôi hiểu rằng giao diện kênh của bạn là của bạn”, ông Nunes đề cập đến các thuật toán truyền thông xã Nunes cũng thảo luận về tính năng mới trên ứng dụng Truth Social cho phép người dùng tham gia các nhóm chung mà họ quan tâm.“Vài tuần trước, chúng tôi cũng đã triển khai các nhóm, tính năng nhóm này cho chúng tôi nhiều tính cạnh tranh hơn”, ông Nunes dùng tại Việt Nam đã có thể tải ứng dụng Truth Social trên Google Play Store và Apple App Store và tạo tài khoản sử dụng bình thường.
xã hội tri thức