Cha của Acsimet là một nhà thiên văn và toán học nổi tiếng Phidias, đã đích thân giáo dục và hướng dẫn ông đi sâu vào hai bộ môn này.Năm 7 tuổi ông học
Các dịch vụ tài chính. Ngân hàng và những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính sử dụng công nghệ Machine Learning với 2 mục đích chính: xác định insights trong dữ liệu và ngăn chặn lừa đảo. Insights sẽ biết được các cơ hội đầu tư hoặc thông báo đến nhà
Ứng dụng của số seri trong đời sống Số seri có nhiều chức năng áp dụng, nó được vận dụng để chống hàng fake hàng fake, hàng bị mất trộm. Và còn được vận dụng trên những loại tiền giấy những giấy tờ mang khả năng chuyển nhượng để tránh việc làm fake và để theo dõi tiền và thủ tục bị trộm cắp.
Các phương pháp nghiên cứu khoa học thực tiễn. #1. Phương pháp quan sát khoa học. Quan sát là phương pháp sử dụng các giác quan cùng với chữ viết, ký hiệu và phương tiện kỹ thuật (máy ảnh, máy ghi âm, máy quay,..) một cách chủ đích, có kế hoạch để ghi nhận, thu thập
2 Sự ứng dụng của Tâm lý học trong các lĩnh vực đời sống Tâm lý học là ngành khoa học nghiên cứu về hành vi và hoạt động tinh thần của con người. Kiến thức của ngành có thể được vận dụng để điều trị các vấn đề sức khỏe tâm thần, cải thiện giáo dục
Như vậy với khối kiến thức to lớn trong cuộc sống thì sẽ được quy về những thuộc tính bản chất thì sẽ dễ nhớ và vận dụng hơn. Phát triển tư duy phải gắn liền với rèn luyện cảm giác, tri giác, năng lực quan sát và trí nhớ của con người. Bởi vì nếu thiếu những tài liệu cảm tính thì tư duy không thể diễn ra được.
Nữ nghiên cứu sinh của ĐH Brunel đã tìm ra giải pháp để giải quyết bài toán hóc búa này, bằng việc sử dụng hạn sử dụng thông minh có tên gọi Bump Mark. Miếng dán được cấu thành từ bốn lớp tạo cảm giác êm mịn khi sờ vào. Nhưng khi bề mặt của nó trở nên gồ ghề, nó cũng đồng thời báo hiệu rằng thực phẩm bên trong đã hết hạn sử dụng.
HpDWx9. Dưới đây là các thông tin và kiến thức về chủ đề những ứng dụng của toán học trong đời sống hay nhất do chính tay đội ngũ laodongdongnai chúng tôi biên soạn và tổng hợp1. ỨNG DỤNG CỦA TOÁN HỌC TRONG CUỘC SỐNG HÀNG NGÀY 2. Toán học và cuộc sống 3. ’16 năm học Toán không biết dùng làm gì’ 4. Ứng dụng Toán học trong cuộc sống 5. Một số ứng dụng của Toán học 6. ỨNG DỤNG CỦA TOÁN HỌC TRONG CUỘC SỐNG HÀNG NGÀY – Trang web Toán Học Vui cho HS lớp 5 Tham khảo 1. ỨNG DỤNG CỦA TOÁN HỌC TRONG CUỘC SỐNG HÀNG NGÀY Tác giả Ngày đăng 01/15/2021 0136 PM Đánh giá 4 ⭐ 28827 đánh giá Tóm tắt Toán học không phải là những công thức vô bổ mà Toán học gắn liền với sự phát triển của loài người. Những bài toán đặt ra xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, từ bài toán cho sản xuất đến giải quyết các bài toán dự đoán tự nhiên, vũ trụ,… Khớp với kết quả tìm kiếm Toán học không phải là những công thức vô bổ mà Toán học gắn liền với sự phát triển của loài người. Những bài toán đặt ra xuất phát từ nhu ……. read more 2. Toán học và cuộc sống Tác giả Ngày đăng 01/06/2019 0652 AM Đánh giá 3 ⭐ 70698 đánh giá Tóm tắt Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta toán học ứng dụng được những gì? Hãy cùng tham khảo bài viết “Toán học và cuộc sống” để hiểu rõ hơn nhé Khớp với kết quả tìm kiếm Cùng với ứng dụng thông qua cơ học và vật lý, những ứng dụng thông qua điều khiển học tăng lên không ngừng và ngày càng quan trọng. Có thể nói bất kỳ tiến bộ ……. read more3. ’16 năm học Toán không biết dùng làm gì’ Tác giả Ngày đăng 11/16/2021 0624 AM Đánh giá 4 ⭐ 22440 đánh giá Tóm tắt Tôi học kỹ sư cơ khí, ra làm thiết kế, nhưng cũng chỉ áp dụng đến mấy phép Toán cộng, trừ, nhân, chia, khai căn… là hết. Khớp với kết quả tìm kiếm Toán học ứng dụng là một ngành toán học áp dụng các kiến thức toán học cho các lĩnh vực khác. Các ứng dụng có thể bao gồm giải tích số, toán học tính toán, ……. read more4. Ứng dụng Toán học trong cuộc sống Tác giả Ngày đăng 03/26/2021 0432 AM Đánh giá 5 ⭐ 73839 đánh giá Tóm tắt Khớp với kết quả tìm kiếm Thật sự toán học có nhiều ứng dụng hơn chúng ta nghĩ. Nếu thầy cô, chương trình học đều không giúp con bạn nhận ra điều đó thì đây là bài ……. read more5. Một số ứng dụng của Toán học Tác giả Ngày đăng 10/28/2020 0212 PM Đánh giá 4 ⭐ 62018 đánh giá Tóm tắt Khớp với kết quả tìm kiếm Vấn đề là ta chưa học đủ sâu để có thể nhìn ra tầm quan trọng và áp dụng nó trong cuộc sống. Những kiến thức mà ta học được ở phổ thông hay đại ……. read more6. ỨNG DỤNG CỦA TOÁN HỌC TRONG CUỘC SỐNG HÀNG NGÀY – Trang web Toán Học Vui cho HS lớp 5 Tác giả Ngày đăng 07/21/2021 0250 AM Đánh giá 3 ⭐ 31760 đánh giá Tóm tắt Khớp với kết quả tìm kiếm Học toán ở VN ngày càng trở nên nặng nề và nhàn chám. Một phần là vì thiếu các ví dụ ứng dụng trong thực tiễn hằng ngày. Vì thế Blog ứng dụng Toán học trong ……. read more” Tham khảo
Nguồn gốc của toán học cũng như các ngành khoa học đều là các vấn đề thực tiễn mà loài người cần tìm hiểu để cải thiện cuộc sống. Nhu cầu thực tiễn là nền tảng của sự phát triển toán học. Ngược lại, toán học cũng có tác dụng mạnh mẽ đối với thực tiễn đời sống, sản xuất và các ngành khoa học kỹ thuật khác. Lịch sử của Toán học gắn liền với sự phát triển của loài người, những khái niệm được hình thành hầu hết xuất phát từ đời sống thực tiễn, từ nhu cầu tìm tòi và khám phá của con người. Một số khái niệm được đưa ra không hẳn đã có những ứng dụng trong thực tế nhưng lại là cầu nối hay một công cụ tính toán dẫn đến những định luật và định lý vô cùng quan trọng. Thời xưa khi con người chưa có sự hỗ trợ của máy móc nên bản thân các bài toán phát sinh chỉ là các bài đơn giản, số lượng tính toán là cỡ nhỏ, vì vậy các công cụ toán để sử dụng cũng là những công thức vô cùng đơn giản và sơ khai như phép cộng, phép chia, hay khai căn một cách gần đúng…. Chúng ta hãy cùng xét một số ví dụ sau 1. Một người trồng cây trong vườn, anh ta cố gắng trang hoàng cho cái vườn thật đẹp, vì vậy tất cả các cây anh trồng đều rất thẳng hàng và thẳng cột. Sau một tuần hoàn thành rất vất vả, chợt nhìn lại mảnh vườn của mình, anh không biết đã trồng được bao nhiêu cây. Anh ta sẽ phải đếm từng gốc cây cho đến hết vườn khi các khái niệm về số đếm, phép nhân, phép cộng chưa ra đời. 2. Một ví dụ kinh điển cho sự ra đời ngành hình học thời Ai cập cổ đại đấy là việc chia ruộng cho người dân. Nếu không có sự ra đời các khác niệm chiều dài, chiều rộng, diện tích, thể tích, và số đo góc, có lẽ những người Ai cập khó có thể phân chia ruộng một cách công bằng. 3. Để đo chiều cao của một cái cột hoặc chiều cao một kim tự tháp ở Ai Cập không lẽ ta phải chèo lên tận đỉnh cột tháp để đo? Khi có các kiến thức về ứng dụng của lượng giác và tam giác đồng dạng thì việc đo sẽ trở nên vô cùng dễ dàng. Đây là những ví dụ rất đơn giản và đời thường cho thấy phần nào mối tương quan giữa toán học và cuộc sống. Ngày nay, cùng với sự hỗ trợ của máy tính, toán học trở nên phức tạp và trừu tượng hơn nhưng phạm vi ứng dụng của nó cũng rộng lớn hơn nhiều. Rất nhiều tiến bộ của khoa học kĩ thuật chỉ giải quyết được trên cơ sở những tiến bộ của vật lí, tuy nhiên ngành này lại liên hệ mật thiết với toán học. Phương pháp của toán học đã giúp cho cơ học vật lý và thiên văn đi sâu vào bản chất các quy luật của tự nhiên, có thể đoán trước được các kết quả còn ẩn sau giới hạn của sự hiểu biết. Nhờ quy luật toán học mà Leverier và Adam thế kỷ 19, Lorentz thế kỷ 20 đã xác định được trên lý thuyết sự tồn tại của hai hành tinh mới Hải Vương Tinh và Diêm Vương tinh. Lý thuyết này đã được quan sát thiên văn xác nhận sau đó. Bằng phương pháp vật lý toán, Macxoen đã xác định được sự tồn tại của áp lực ánh sáng và rồi sau đó Lêbedép đã xác nhận kết quả đó bằng thực nghiệm. Các thành tựu to lớn như năng lượng nguyên tử, động cơ phản lực, vô tuyến điện ... đều gắn liền với sự phát triển của ngành toán học như hình học phi Ơclid, đại số, hàm phức, hàm thực, phương trình vi phần, xác suất thông kê Hay lý thuyết về các dạng không gian của không gian hình học được áp dụng trong điện động học và điện kỹ thuật. Những định lý tổng quát của hàm phức là cơ sở của lý thuyết thủy động học và khí động học mà đây là hai ngành lý thuyết cơ sở của kỹ thuật hàng hải và hàng không. Cùng với ứng dụng thông qua cơ học và vật lý, những ứng dụng thông qua điều khiển học tăng lên không ngừng và ngày càng quan trọng. Có thể nói bất kỳ tiến bộ nào của tự động hoá cũng không thể tách rời những thành tựu của toán học. Ví dụ như việc thiết kế và sử dụng các máy tự động, các hệ thống điều khiển và liên lạc đòi hỏi phải dựa trên những thành tựu của logic toán, thông tin học, đại số, lý thuyết độ tin cậy... Đặc biệt phương pháp mô hình được sử dụng rộng rãi và có hiệu quả đối với các quá trình điều khiển. Trên mô hình người ta có thể nghiên cứu vài giờ một quá trình diễn biến hàng năm, nghiên cứu những quá trình không thể làm thí nghiệm trên vật thực, do đó có thể dự đoán và khống chế được chúng. Một lĩnh vực nữa cho thấy toán học và cuộc sống có mối quan hệ mật thiết với nhau đó là trong các vấn đề tổ chức và quản lý sản xuất. Thông thường trước mọi vấn đề quản lý sản xuất người ta có thể đưa ra nhiều phương án. Vậy làm thế nào để có thể chọn được phương án tốt nhất Optiman?. Ngày nay có cả một khoa học về vấn đế đó là vận trù học, nó sử dụng rộng rãi các thành tựu của các ngành toán học mới như Lý thuyết chương trình tuyến tính, lý thuyết đô thị, lý thuyết trò chơi ... Tuy ra đời chưa lâu nhưng vận trù học đã cho thấy nhiều tác dụng to lớn đối với sản xuất, giao thông vận tải và quốc phòng. Một nét nổi bật nữa là ngày nay toán học đã xâm nhập vào nhiều ngành mà trước đây người ta không hề nghĩ tới, chẳng hạn như hoá học và sinh học. Đây là hai ngành trước đây ít sử dụng đến toán học thì nay nhiều bộ phận của chúng đã sử dụng nhiều ngành hiện đại của toán học, như thông tin, tô pô, máy tính điện tử. Bằng phương pháp toán học người ta có thể dự đoán được tính chất của các hợp chất, nghiên cứu những vấn đề khó khăn nhất về tính di truyền, về cơ cấu hoạt động của hệ thần kinh... Trong y học bằng phương pháp thống kê và máy tính điện tử người ta có thể cải tiến phương pháp chuẩn đoán bệnh cho chính xác hơn. Xuất phát từ vấn đề tìm Algorit để có thể dịch được các thứ tiếng bằng máy tính điện tử, người ta dùng logic toán để nghiên cứu quy luật cấu trúc của ngôn ngữ mà từ đó một ngành toán học mới - ngôn ngữ toán ra đời. Ở các nước tiên tiến, phương pháp của toán học thống kê, logic toán, lý thuyết thông tin... được sử dụng ngày càng rộng rãi trong công tác thư viện để nâng cao hiệu quả phục vụ và tính khoa học của ngành. Việc điều tra xã hội học để nghiên cứu tâm lý, thị hiếu của quần chúng trong các ngành văn hoá xã hội muốn đạt được kết quả sâu sắc chắc chắn cũng phải dùng các phương pháp của toán học. Những ví dụ trên đây cho ta thấy một điều rõ ràng là toán học chính là cuộc sống, toán học và cuộc sống luôn đi liền với nhau. Mục đích của toán học là cải thiện cuộc sống, nhu cầu cuộc sống là động lực để toán học phát triển.
Toán học không phải là những công thức vô bổ mà Toán học gắn liền với sự phát triển của loài người. Những bài toán đặt ra xuất phát từ nhu cầu thực tiễn từ bài toán cho sản xuất đến giải quyết các bài toán dự đoán tự nhiên, vũ trụ,.. Ứng dụng của Toán học trong cuộc sống hàng ngày Ngày nay, cùng với sự hỗ trợ của máy tính, các bài toán con người có thể đặt ra là vô cùng trừu tượng và phức tạp, với số lượng phép tính lớn, vượt xa ra khỏi khả năng tự nhiên của một con người. Vì vậy các công cụ tính toán và các khái niệm mới cũng hết sức trừu tượng nên khó có thể tìm một ứng dụng tự nhiên của nó trong đời sống hằng ngày, chúng ta có thể chỉ ra nó ứng dụng vào công việc gì mà khó có thể giải thích cụ thể xem nó ứng dụng như thế nào. Ví dụ Chúng ta muốn lập bản đồ thế giới trên quả cầu tròn hay trên mặt phẳng, 2 công việc tưởng chừng như giống nhau nhưng thật sự không đơn giản để tạo ra được sự tương đồng về khoảng cách, tỉ lệ xích, vị trí tương đối giữa các đối tượng trên bản đồ. Khái niệm được sử dụng ở đây chính là khái niệm Đa tạp. Các bạn có thể tìm hiểu khái niệm Đa tạp trên wiki. Sự giống nhau và khác nhau trong cách hình thành bản đồ có trong chính định nghĩa của Đa tạp. Bản đồ hình cầu và bản đồ phẳng đều là trong các đa tạp 2 chiều, nhưng khác nhau là bản đồ cầu thì có cực điểm vô hạn còn bản đồ phẳng thì không. Để hiểu được khái niệm này sử dụng thế nào có lẽ chỉ những người trong ngành hẹp mới hiểu được phần nào ý nghĩa của nó. Toán học luôn là một cái gì đó kì bí và vĩ đại, cũng vô cùng say mê và cuốn hút nhiều cuộc đời theo đuổi nó. Ngày xưa, có một câu chuyện về 2 cha con cùng nhìn lên bầu trời đêm, người con chỉ lên bầu trời đêm và hỏi người cha về những vì sao “cái gì mà lấp lánh thế kia ba”, người cha cũng chỉ biết đến những vì sao qua những câu chuyện thần thoại của người xưa kể lại. Ông kể một cách say mê cho người con về những chòm sao, về câu chuyện của những vị thần, một thế giới sinh động hiện ra trước mắt đứa trẻ. Đứa trẻ nói một cách đầy quyết tâm với người cha “con sẽ lên thăm các vị thần đó”. Nó đâu biết rằng câu nói của nó là ước mong hàng ngàn năm nay của loài người. Lúc đó trong đầu nó chỉ nghĩ đơn giản là bắc 1 cái thang thật cao, hay làm một đôi cánh thật to để bay như loài chim là có thể đến được cái điều nó muốn. Những công cụ nó nghĩ, nó nhìn thấy là vô cùng cụ thể, mà thực tại nó có thể làm được, nhưng nó đâu biết rằng hàng nghìn năm sau con người có thể bay đến đich nhưng tất cả các chất liệu để làm ra cái thang vĩ đại đó thì nó khó có thể biết được là gồm những gì. Trở lại câu chuyện của chúng ta, Toán học cũng như bầu trời đêm kia, còn ẩn chứa nhiều điều bí ẩn mà con người chưa thể hiểu hết về nó, nhưng chính sự kì bí đó kích thích sự tò mò của con người muốn nghiên cứu tận cùng của nó. Vì vậy những câu hỏi tựa như, “nó như thế nào, nó ứng dụng ra sao” sẽ luôn là những câu hỏi lơ lửng bay phía trước để những người yêu toán thực sự tìm đến nó. Khi sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật cùng với sự tiến hóa của loài người, đầu óc con người ngày càng thông minh và nhạy bén, đôi khi chúng ta làm việc, hành động và suy nghĩ là theo các phản xạ tự nhiên, không điều kiện, mà chúng ta không biết được rằng đó là Toán học, đó là thứ mà hàng nghìn năm trước loài người không thể thực hiện được vì chưa biết được các nguyên lý và khái niệm toán học của nó. Những gì Toán học được áp dụng ngày nay những cái đơn giản và sơ cấp thì được chúng ta thực hiện hàng ngày, thành thục mà chúng ta dễ dãi bỏ qua việc nhận biết nó có phải là toán học hay không, những cái phức tạp hơn thì được chúng ta sử dụng các máy móc và các thiết bị hiện đại mà không biết bao nhiêu tư duy về thuật toán và các công trình toán học ẩn chứa trong nó. Chúng ra cùng xét một số ví dụ về tư duy của con người trước và sau khái niệm VD1 Một người trồng cây trong vườn, ông ta cố gắng trang hoàng cho cái vườn thật đẹp, vì vậy tất cả các cây ông trồng đều rất thẳng hàng và thẳng cột. Sau một tuần hoàn thành rất vất vả, chợt nhìn lại mảnh vườn của mình, ông không biết đã trồng được bao nhiêu cây. Giả thiết 1 khi khái niệm về phép nhân chưa hình thành ông ấy sẽ đếm từng gốc cây cho đến hết vườn. Giả thiết 2 khi khái niệm về số đếm, phép nhân, phép cộng đã biết ông ta sẽ chỉ đếm số cây trên mỗi hàng và mỗi cột rồi nhân với nhau. Một ví dụ khác về ứng dụng của lượng giác và tam giác đồng dạng có trong sách giáo khoa lớp 8 Khi đo chiều cao của một cái cột hoặc chiều cao một kim tự tháp ở Ai Cập. Một ví dụ kinh điển cho sự ra đời ngành hình học thời Ai cập cổ đại đấy là việc chia ruộng cho người dân. Nếu không có sự ra đời các khác niệm chiều dài, chiều rộng, diện tích, thể tích, và số đo góc, có lẽ những người Ai cập khó có thể phân chia ruộng một cách công bằng. Chúng ta muốn biết nhiều hơn nữa những ứng dụng rất đời thường của Toán học, có lẽ ta phải cùng nhau nhìn lại lịch sử của Toán học. Trong loạt bài viết về lịch sử toán học mà chúng tôi đang thực hiện, hi vọng mở ra các góc nhìn khác nhau về toán học, và gợi được một chút say mê cho những người yêu Toán. Nguồn tin Tạp chí Toán và Tin
Đặt vấn đề Robbin 1932 định nghĩa, kinh tế học là khoa học nghiên cứu hành vi của con người trong việc lựa chọn/ra quyết định sử dụng những nguồn lực khan hiếm trong mối quan hệ phù hợp với kết quả đầu ra. Định nghĩa này nhấn mạnh tầm quan trọng của một khái niệm thường xuất hiện trong kế toán quản trị KTQT là “chi phí cơ hội”. Malinvaud 1972 định nghĩa, kinh tế học là khoa học nghiên cứu về việc các nguồn lực hữu hạn được sử dụng như thế nào để thỏa mãn các nhu cầu của con người trong đời sống xã hội. Một mặt, kinh tế học quan tâm đến các công việc cần thiết như sản xuất, phân phối và tiêu dùng hàng hóa; mặt khác, cần có những thể chế hay hoạt động để giúp cho công việc này được thuận tiện. Những vấn đề này đều nằm trong phạm vi nghiên cứu của KTQT dựa trên kinh tế học. Hai định nghĩa trên thể hiện rõ về giả định, các chủ thể tham gia vào hoạt động kinh tế nhằm tối đa hóa các lợi ích kinh tế, nhưng cũng khuyến khích các quan điểm khác phản bác về mục tiêu của các chủ thể khi tham gia vào thị trường. Nhiều quan điểm khác cho rằng, những chủ thể tham gia thị trường “không hoàn toàn lý trí” và “không hoàn toàn vì mục tiêu cá nhân”. Những chủ thể tham gia vào thị trường hoặc những người sử dụng các mô hình trong kinh tế học có thể “vị tha” và “hợp tác” ở một mức độ nào đó... Điều này khiến cho các nghiên cứu KTQT không chỉ đặt trong mối quan hệ với kinh tế học mà cần được đặt trong mối quan hệ với nhiều khoa học khác. Bài viết này khái quát một số lý thuyết kinh tế được sử dụng trong các nghiên cứu KTQT và tổng hợp các quan điểm phản biện về việc sử dụng kinh tế học trong nghiên cứu KTQT. Các mô hình kinh tế cơ bản được sử dụng trong nghiên cứu kế toán quản trị Nền móng của các mô hình kinh tế học vi mô là sự dịch chuyển “mang tính cá nhân” hoặc “vì lý trí” của hàng hóa, dịch vụ giữa các hộ kinh doanh, các doanh nghiệp DN; việc giao thương hàng hóa được thực hiện trong một thị trường cạnh tranh hoàn hảo - thị trường mà giá cả được tạo ra hoàn toàn phù hợp với các nguồn lực có sẵn từ đầu trong xã hội. Lý thuyết kinh tế học vi mô có 2 mục tiêu Thứ nhất, giải thích bằng cách nào thị trường duy trì được sự cân bằng và dự báo sự cân bằng trên thị trường sẽ thay đổi như thế nào khi xuất hiện những tác động ngoại sinh. Sự cân bằng này sẽ tạo nên môi trường kinh doanh cho các DN trong nền kinh tế và cho ra những thông tin về giá cả, số lượng hàng hóa được sử dụng trong KTQT. Tuy nhiên, trạng thái cân bằng của thị trường không được thể hiện rõ trong KTQT ở những nội dung liên quan đến các quyết định cụ thể của nhà quản trị hay trong việc đo lường, kiểm soát hoạt động. Những nội dung này thường chỉ hướng tới sự cân bằng bộ phận. Thứ hai, tìm kiếm cách thức tổ chức sản xuất, tiêu dùng và trao đổi tối ưu. Đây là trọng tâm của KTQT vì nó tìm kiểm lợi nhuận và giá trị ròng tối đa. Thậm chí, KTQT chỉ tập trung vào xác định phương thức sản xuất tối ưu và bỏ qua những vấn đề liên quan đến tiêu dùng, trao đổi thông qua hàm ý về sự hoàn hảo của thị trường; hoặc ít nhất, tiêu dùng và trao đổi không phải là vấn đề được quan tâm đầu tiên bởi KTQT. Như vậy, có thể hiểu, KTQT tiếp cận kinh tế học theo hướng “chuẩn tắc” hơn là theo hướng “thực chứng”. Có 02 mô hình kinh tế học được cho là định hướng các nội dung của KTQT gồm i Mô hình về cấu trúc chi phí của DN; ii Mô hình về các tình huống không chắc chắn. Mô hình về cấu trúc chi phí của DN Nhìn chung, KTQT tập trung vào cấu trúc chi phí của DN. Kinh tế học giúp chỉ ra những cách thức để mô hình hóa cấu trúc này nhằm cho phép DN có những lựa chọn đầu vào nhằm đạt được đầu ra tối ưu. Bản chất là tập trung vào các giải pháp nội sinh cho các vấn đề có liên quan tới các biến ngoại sinh. Để mô hình hóa được cấu trúc chi phí của một DN, theo Chambers 1988, một hàm chi phí có thể như sau Cw,y=min wx x Vy,x>0 1 Trong đó w là một véc-tơ giá đầu vào hoặc một dải giá nhận giá trị từ 1 đến m, y là một véc-tơ đầu ra nhận giá trị từ 1 đến n, và x là một véc-tơ đầu vào nhận giá trị từ 1 đến m. Vy là tập hợp các yêu cầu đầu vào kết hợp của tất cả các sự kết hợp có thể xảy ra giữa kết quả sản xuất đầu ra y và bao gồm cả công nghệ tối ưu cho mỗi sự kết hợp của các yếu tố đầu vào. Biểu tượng điều kiện yêu cầu tất cả các nhóm đầu vào x đều phải nằm trong nền tảng công nghệ sẵn có. Thông thường trong mô hình này, công nghệ tối ưu được biểu diễn là một hàm sản xuất. Hàm sản xuất này chỉ ra các nhóm đầu vào hiệu quả đối với từng kết quả đầu ra cho trước. Mô hình cấu trúc chi phí nêu trên rất thông dụng và có thể kết hợp giữa tuyến tính và phi tuyến tính, cũng như áp dụng cho các chi phí chung. Cấu trúc chi phí này đã được sử dụng để phân tích mô hình chi phí dựa trên hoạt động ABC Banker và Hughes, 1994. Mô hình này cũng cung cấp nền tảng cho các mô hình phân quyền và kế toán trách nhiệm trong KTQT. Tuy nhiên, một số quan điểm phê phán mô hình kinh tế này là nó cung cấp các phân tích trong dài hạn - tất cả các yếu tố đầu vào đều có thể thay đổi là các biến trong mô hình - và được giả định trong bối cảnh DN thực hành ABC. Trong khi đó, các nhà kinh tế lại thường đưa ra các quyết định trong ngắn hạn với một số yếu tố đầu vào được giả định là cố định. Do đó, tính cố định của các yếu tố đầu vào là một biến quyết định nội sinh đối với DN. Chỉ khi nào các nguồn lực cố định được quyết định thì DN mới xem xét tới bài toán tối ưu bằng cách sử dụng hàm chi phí ngắn hạn. Bằng cách này, kinh tế học vi mô có thể giải quyết được cả bài toán về giới hạn cũng như dư thừa công suất. Việc thay đổi các yếu tố cố định đầu vào có thể mất chi phí chuyển đổi cũng như có độ trễ về thời gian Nickell, 1978. Nhiều nghiên cứu KTQT dựa trên kinh tế học đã sử dụng mô hình cấu trúc chi phí này để khám phá xem liệu mô hình có thể nắm bắt được đầy đủ tính kinh tế cơ bản trong các tình huống thực tế hay không. Cụ thể, mục tiêu của các nghiên cứu là tìm hiểu về những nguyên nhân và ảnh hưởng của KTQT, bao gồm cả những khác biệt của nó so với mô hình kinh tế, để từ đó cải thiện tính nhất quán của KTQT với các cấu trúc kinh tế cơ bản. Điều này hàm ý rằng KTQT sẽ ngày một tốt hơn khi được nhìn dưới lăng kính của kinh tế học. Mô hình về các yếu tố không chắc chắn Mô hình kinh tế học cơ bản thứ hai có thể được sử dụng trong các nghiên cứu KTQT để nhằm giải quyết các vấn đề không chắc chắn. Hàm phản ánh quyết định tối ưu trong bối cảnh có các yếu tố không chắc chắn với những thông tin cho trước có thể viết như sau EUa*,yk,η j =maxaj[uaj,sj Φsjyk] 2 Điều kiện a Aai=1,…,A yk ηj Mô hình trên đây có một số biến đại diện cho những ý tưởng rất phức tạp. Yếu tố không chắc chắn duy nhất trong mô hình là trạng thái của môi trường xung quanh DN sj,j=1,…S sẽ xảy ra bên ngoài tập hợp các trạng thái của môi trường S. Xác suất/khả năng xảy ra của từng trạng thái là ϕ j=1,...,S. Sự ưu tiên cho các kết quả đầu ra không chắc chắn xij=fai,sj được đo lường bằng hàm hữu ích U – hàm này phản ánh thái độ của nhà quản trị những người ra quyết định trước những rủi ro. Hệ thống thông tin ηj đưa ra các tín hiệu yk,k=1,….,K về khả năng của từng trạng thái của môi trường. Mục tiêu của nhà quản trị người ra quyết định là tối đa hóa những lợi ích/hữu ích kỳ vọng EU, trong đó E là sự kỳ vọng có được từ việc lựa chọn hành động tối ưu a* trong số các hành động sẵn có ai,i=1,….,A, với các dấu hiệu yk,k=1,….,K cho trước từ hệ thống thông tin ηj. Mô hình này tiếp tục được phát triển và sử dụng làm công cụ phân tích, tính toán các giá trị kỳ vọng phục vụ đa dạng các nhà quản trị theo các trường phái ứng xử với rủi ro khác nhau, bao gồm nhà quản trị tìm kiếm rủi ro, nhà quản trị ưu tiên trung bình rủi ro và nhà quản trị né tránh rủi ro. Kết quả ứng dụng kinh tế học trong các nghiên cứu kế toán quản trị Solomons 1952, 1968 là tác giả của “Các nghiên cứu về tập hợp chi phí và tính giá thành” và “Các nghiên cứu về phân tích chi phí”. Nghiên cứu đầu tiên trình bày một số kết quả của các nghiên cứu trước đây trong các trường đại học về kế toán tập hợp, phân bổ chi phí và tính giá thành sản phẩm. Nghiên cứu thứ hai được xem như là ngòi nổ cho những nghiên cứu KTQT dựa trên kinh tế học, xu thế nghiên cứu còn kéo dài mãi cho tới tận ngày nay. Các nghiên cứu về tập hợp chi phí và tính giá thành Theo Solomons 1952, khái niệm “chi phí sử dụng vốn” được đưa ra xem xét liệu nó có phải là một phần của chi phí sản xuất hay không. Một số nghiên cứu khác về chi phí cho việc ra quyết định về phân bổ chi phí, tuy nhiên, những chủ đề đến nay đã trở thành cổ điển. Điều thú vị là các nghiên cứu này đều được công bố trên các tạp chí hàn lâm chuyên nghiệp và đều có ảnh hưởng đến thực hành tại DN. Một trong những khái niệm quan trọng khác của kinh tế học vi mô là “chi phí cơ hội”. Chi phí cơ hội đã được đưa vào các nghiên cứu kế toán chi phí thông qua khái niệm “phân bổ định phí chung”. Thực vậy, việc phân bổ các chi phí chung cố định ngày càng phổ biến bởi chúng có thể dùng như một đại lượng thay thế cho các chi phí cơ hội khó tính toán Bruce L. Miller và A. G. Buckman, 1987. Ngoài ra, khái niệm “chi phí biên” cũng được các nghiên cứu KTQT sử dụng để giải quyết các vấn đề trong việc ra quyết định, vì KTQT sẽ trả lời được câu hỏi sự khác biệt về doanh thu và chi phí giữa các phương án được xem xét lựa chọn. Một số nghiên cứu về những yếu tố không chắc chắn, chiết khấu dòng tiền trong tương lai hoặc “tính giá thành liên sản phẩm” đều tận dụng lý thuyết kinh tế học để tìm hiểu Coase, 1938. Những năm 1970, sự tương phản về phương pháp định giá bán sản phẩm giữa người làm kế toán và các nhà kinh tế học cũng diễn ra. Trong khi người làm kế toán vận dụng khái niệm “chi phí cơ hội” để phân bổ chi phí chung cố định vào trong giá thành sản phẩm, từ đó định giá bán dựa trên giá thành toàn bộ của sản phẩm thì những nhà kinh tế học lại cho rằng, việc tính giá thành sản phẩm chỉ nên sử dụng những biến phí. Theo những nhà kinh tế học, định phí chung là những khoản đầu tư cho dài hạn, đặc biệt trong bối cảnh các DN của Mỹ vẫn duy trì sự độc quyền cho tới tận những năm 1970, việc đầu tư vào những tài sản dài hạn đó gần như là lựa chọn tối ưu. Vì vậy, sẽ không có chi phí cơ hội trong trường hợp này, đồng nghĩa là không cần trích khấu hao cho những tài sản cố định. Sự tương phản này giải thích cho việc tại sao đến tận thời điểm hiện nay, trong hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế vẫn cho phép lựa chọn 1 trong 2 phương pháp kế toán tài sản cố định là kế toán theo phương pháp khấu hao hoặc kế toán theo phương pháp giá trị hợp lý; đồng nghĩa với việc hàng tồn kho được sản xuất ra cũng được phép đánh giá theo giá thành toàn bộ hoặc có thể chỉ được đánh giá theo biến phí. Các nghiên cứu về phân tích chi phí Một số nghiên cứu nhấn mạnh việc áp dụng giá thành toàn bộ cộng thêm phần lợi nhuận kỳ vọng có thể giải thích sơ bộ cho chi phí cơ hội Baxter và Oxenfeldt, 1961. Một số nghiên cứu khác cũng đưa ra được những công cụ mới dựa trên việc phân tích các chi phí để giúp những nhà thực hành kế toán hoặc giới thiệu cho các nhà nghiên cứu kế toán những nguyên tắc mới. Samuels 1965 đã tổng hợp các nghiên cứu về sử dụng “phương pháp đồ thị hóa kép” để mô tả và xác định chi phí cơ hội. Amey 1969 đã ủng hộ việc đo lường hiệu quả trong mối liên hệ với lập dự toán tối ưu bằng việc sử dụng phương pháp mô hình hóa toàn diện/tổng thể. Baumol và Sevin 1957 nhấn mạnh tầm quan trọng của phương pháp đồ thị hóa đó là phương pháp này có thể giúp tối ưu hóa lợi nhuận giữ lại có được từ một số tiền trên bảng cân đối kế toán và các giao dịch kế toán. Ngoài ra, Demski 1968 đã có đóng góp quan trọng cho việc tính giá thành theo định mức thông qua việc sử dụng phương pháp đồ thị hóa để tính toán biến động của chi phí cơ hội bằng cách phân biệt giữa “biến động hoạt động” và “biến động kế hoạch” do những thay đổi của môi trường. Kết luận Lý thuyết kinh tế học vi mô nhìn chung được ứng dụng trong các nghiên cứu KTQT theo hướng chuẩn tắc nhằm tìm kiếm những công cụ, phương pháp, mô hình giúp cải thiện hiệu quả kinh tế của các DN hơn là được ứng dụng để tìm hiểu, giải thích các hiện tượng/thực hành KTQT theo hướng “thực chứng” như những lý thuyết khoa học khác. Nhìn chung, lý thuyết kinh tế học vi mô hướng tới 2 mục tiêu là i Tìm kiếm biện pháp sản xuất kinh doanh để khai thác tối ưu nguồn lực hữu hạn của DN và ii Giải thích được sự mất cân bằng của thị trường khi có các tác nhân biến động. Từ 2 mục tiêu này, lý thuyết kinh tế học vi mô có những ảnh hưởng trực tiếp tới kế toán chi phí, cụ thể Các phương pháp, kỹ thuật tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm nhằm mục đích định giá bán sản phẩm; Phân tích chi phí để xác định cơ cấu sản xuất tối ưu và giải quyết các tình huống không chắc chắn. Rất nhiều những nội dung của KTQT vì thế mà được ra đời và tồn tại đến nay như các phương pháp phân bổ chi phí chung, nên hay không nên phân bổ chi phí chung, hoặc cuộc tranh luận giữa định giá bán dựa trên giá thành toàn bộ hay giá thành theo biến phí, hoặc phân tích điểm hòa vốn và phân tích thông tin trong điều kiện bị giới hạn năng lực sản xuất... Nhiều quan điểm cho rằng, các nghiên cứu KTQT dựa trên kinh tế học giúp kế toán ngày càng hoàn thiện hơn và gần với các lý thuyết kinh tế học vi mô hơn. Tuy nhiên, cũng không ít nghiên cứu phê phán việc ứng dụng kinh tế học trong nghiên cứu KTQT vì các nghiên cứu này đã i Thừa nhận và ủng hộ kinh tế tư bản, ii Chỉ quan tâm tới lợi ích cổ đông mà không quan tâm tới các bên liên quan và toàn xã hội, iii Những đóng góp của người lao động trong việc tạo ra giá trị cho DN không được đền đáp xứng đáng qua tiền lương, iv Không quan tâm tới những thể chế nội bộ trong DN; v Không giải quyết được những vấn đề về hành vi của các cá nhân và mối quan hệ của họ trong DN. Vì vậy, để KTQT thực sự là công cụ giúp tăng hiệu quả kinh tế cho DN thì cần thiết phải nghiên cứu KTQT dưới góc độ không chỉ của lý thuyết kinh tế học mà cần kết hợp với nhiều lý thuyết khoa học khác. Tài liệu tham khảo Amey, L. R. 1969, The Efficiency of Business Enterprise. London George Allen and Unwin; Banker, R. & Hughes, D. 1994, Product costing and pricing. The Accounting Review, 69, 479–494; Baumol, W. S. & Sevin, C. H. 1957, Marketing costs and mathematical programming. Harvard Business Review, 355, 52–60; Baxter, W. T. & Oxenfeldt, A. R. 1961, Costing and pricing the cost accountant versus the economist. Business Horizons, 44, 77–90; Chambers, R. G. 1988, Applied production analysis a dual approach. Cambridge Cambridge University Press; Coase, R. 1938. Business organisation and the accounting, The Accountant, issues from October 1 to December 17; Demski, J. 1968, Variance analysis using a constrained linear model. In D. Solomons Ed., Studies in Cost Analysis. London Sweet & Maxwell; Malinvaud, E. 1972, Lectures on microeconomic theory. New York North-Holland.
Nguồn gốc của toán học cũng như các ngành khoa học đều là các vấn đề thực tiễn mà loài người cần tìm hiểu để cải thiện cuộc sống. Nhu cầu thực tiễn là nền tảng của sự phát triển toán học. Ngược lại, toán học cũng có tác dụng mạnh mẽ đối với thực tiễn đời sống, sản xuất và các ngành khoa học kỹ thuật khác. Đang xem ứng dụng toán học trong đời sống Lịch sử của Toán học gắn liền với sự phát triển của loài người, những khái niệm được hình thành hầu hết xuất phát từ đời sống thực tiễn, từ nhu cầu tìm tòi và khám phá của con người. Một số khái niệm được đưa ra không hẳn đã có những ứng dụng trong thực tế nhưng lại là cầu nối hay một công cụ tính toán dẫn đến những định luật và định lý vô cùng quan trọng. Thời xưa khi con người chưa có sự hỗ trợ của máy móc nên bản thân các bài toán phát sinh chỉ là các bài đơn giản, số lượng tính toán là cỡ nhỏ, vì vậy các công cụ toán để sử dụng cũng là những công thức vô cùng đơn giản và sơ khai như phép cộng, phép chia, hay khai căn một cách gần đúng…. Chúng ta hãy cùng xét một số ví dụ sau người trồng cây trong vườn, anh ta cố gắng trang hoàng cho cái vườn thật đẹp, vì vậy tất cả các cây anh trồng đều rất thẳng hàng và thẳng cột. Sau một tuần hoàn thành rất vất vả, chợt nhìn lại mảnh vườn của mình, anh không biết đã trồng được bao nhiêu cây. Anh ta sẽ phải đếm từng gốc cây cho đến hết vườn khi các khái niệm về số đếm, phép nhân, phép cộng chưa ra đời. 2. Một ví dụ kinh điển cho sự ra đời ngành hình học thời Ai cập cổ đại đấy là việc chia ruộng cho người dân. Nếu không có sự ra đời các khác niệm chiều dài, chiều rộng, diện tích, thể tích, và số đo góc, có lẽ những người Ai cập khó có thể phân chia ruộng một cách công bằng. 3. Để đo chiều cao của một cái cột hoặc chiều cao một kim tự tháp ở Ai Cập không lẽ ta phải chèo lên tận đỉnh cột tháp để đo? Khi có các kiến thức về ứng dụng của lượng giác và tam giác đồng dạngthì việc đo sẽ trở nên vô cùng dễ dàng. Xem thêm Ngoại Truyện 1 – Cơ Quan Ngôn Luận Của Bộ Y Tế Đây là những ví dụ rất đơn giản và đời thường cho thấy phần nào mối tương quan giữa toán học và cuộc sống. Ngày nay, cùng với sự hỗ trợ của máy tính, toán học trở nên phức tạp và trừu tượng hơn nhưng phạm vi ứng dụng của nó cũng rộng lớn hơn nhiều. Rất nhiều tiến bộ của khoa học kĩ thuật chỉ giải quyết được trên cơ sở những tiến bộ của vật lí, tuy nhiên ngành này lại liên hệ mật thiết với toán học. Phương pháp của toán học đã giúp cho cơ học vật lý và thiên văn đi sâu vào bản chất các quy luật của tự nhiên, có thể đoán trước được các kết quả còn ẩn sau giới hạn của sự hiểu biết. Nhờ quy luật toán học mà Leverier và Adam thế kỷ 19, Lorentz thế kỷ 20 đã xác định được trên lý thuyết sự tồn tại của hai hành tinh mới Hải Vương Tinh và Diêm Vương tinh. Lý thuyết này đã được quan sát thiên văn xác nhận sau đó. Bằng phương pháp vật lý toán, Macxoen đã xác định được sự tồn tại của áp lực ánh sáng và rồi sau đó Lêbedép đã xác nhận kết quả đó bằng thực nghiệm. Các thành tựu to lớn như năng lượng nguyên tử, động cơ phản lực, vô tuyến điện … đều gắn liền với sự phát triển của ngành toán học như hình học phi Ơclid, đại số, hàm phức, hàm thực, phương trình vi phần, xác suất thông kê Hay lý thuyết về các dạng không gian của không gian hình học được áp dụng trong điện động học và điện kỹ thuật. Những định lý tổng quát của hàm phức là cơ sở của lý thuyết thủy động học và khí động học mà đây là hai ngành lý thuyết cơ sở của kỹ thuật hàng hải và hàng không. Cùng với ứng dụng thông qua cơ học và vật lý, những ứng dụng thông qua điều khiển học tăng lên không ngừng và ngày càng quan trọng. Có thể nói bất kỳ tiến bộ nào của tự động hoá cũng không thể tách rời những thành tựu của toán học. Ví dụ như việc thiết kế và sử dụng các máy tự động, các hệ thống điều khiển và liên lạc đòi hỏi phải dựa trên những thành tựu của logic toán, thông tin học, đại số, lý thuyết độ tin cậy… Đặc biệt phương pháp mô hình được sử dụng rộng rãi và có hiệu quả đối với các quá trình điều khiển. Trên mô hình người ta có thể nghiên cứu vài giờ một quá trình diễn biến hàng năm, nghiên cứu những quá trình không thể làm thí nghiệm trên vật thực, do đó có thể dự đoán và khống chế được chúng. Một lĩnh vực nữa cho thấy toán học và cuộc sống có mối quan hệ mật thiết với nhau đó là trong các vấn đề tổ chức và quản lý sản xuất. Thông thường trước mọi vấn đề quản lý sản xuất người ta có thể đưa ra nhiều phương án. Vậy làm thế nào để có thể chọn được phương án tốt nhất Optiman?. Ngày nay có cả một khoa học về vấn đế đó là vận trù học, nó sử dụng rộng rãi các thành tựu của các ngành toán học mới như Lý thuyết chương trình tuyến tính, lý thuyết đô thị, lý thuyết trò chơi … Tuy ra đời chưa lâu nhưng vận trù học đã cho thấy nhiều tác dụng to lớn đối với sản xuất, giao thông vận tải và quốc phòng. Một nét nổi bật nữa là ngày nay toán học đã xâm nhập vào nhiều ngành mà trước đây người ta không hề nghĩ tới, chẳng hạn như hoá học và sinh học. Đây là hai ngành trước đây ít sử dụng đến toán học thì nay nhiều bộ phận của chúng đã sử dụng nhiều ngành hiện đại của toán học, như thông tin, tô pô, máy tính điện tử. Bằng phương pháp toán học người ta có thể dự đoán được tính chất của các hợp chất, nghiên cứu những vấn đề khó khăn nhất về tính di truyền, về cơ cấu hoạt động của hệ thần kinh… Xem thêm Mẫu Biên Bản Hội Nghị Cử Tri Lấy Ý Kiến Cử Tri, Hạnh Phúc Biên Bản Tổng Hợp Kết Quả Lấy Ý Kiến Cử Trong y học bằng phương pháp thống kê và máy tính điện tử người ta có thể cải tiến phương pháp chuẩn đoán bệnh cho chính xác hơn. Xuất phát từ vấn đề tìm Algorit để có thể dịch được các thứ tiếng bằng máy tính điện tử, người ta dùng logic toán để nghiên cứu quy luật cấu trúc của ngôn ngữ mà từ đó một ngành toán học mới – ngôn ngữ toán ra đời. Ở các nước tiên tiến, phương pháp của toán học thống kê, logic toán, lý thuyết thông tin… được sử dụng ngày càng rộng rãi trong công tác thư viện để nâng cao hiệu quả phục vụ và tính khoa học của ngành. Việc điều tra xã hội học để nghiên cứu tâm lý, thị hiếu của quần chúng trong các ngành văn hoá xã hội muốn đạt được kết quả sâu sắc chắc chắn cũng phải dùng các phương pháp của toán học. Những ví dụ trên đây cho ta thấy một điều rõ ràng là toán học chính là cuộc sống, toán học và cuộc sống luôn đi liền với nhau. Mục đích của toán học là cải thiện cuộc sống, nhu cầu cuộc sống là động lực để toán học phát triển. Post navigation
những ứng dụng của toán học trong đời sống